Cùng với sự phát triển và ứng dụng rộng rãi của mạng lưới truyền thông và công nghệ thông tin, nhiều thư viện số đang có sự phát triển mạnh mẽ trên thế giới hiện nay. Những thư viện số này sẽ trở thành trung tâm thu thập và sản sinh ra nhiều tài nguyên thông tin khác nhau, là cầu nối cho sự trao đổi giữa các chuyên gia, thủ thư và bạn đọc, là công cụ khám phá, tìm kiếm và truy xuất thông tin và là mô hình hiện đai nhằm cung cấp những dịch vụ thông tin chuyên biệt ở mức độ cao. Sự xuất hiện của thư viện số không chỉ tạo ra một cơ hội mới cho sự phát triển thư viện, mà còn đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc cải tổ những thư viện truyền thống, đặc biệt là phát triển một thủ thư theo “phong cách mới”.
Định nghĩa và đặc điểm thư viện số
Nhiều định nghĩa đã được công bố trong giới học giả toàn cầu về thư viện nhằm định nghĩa rõ ràng một thư viện số. Đây là một số định nghĩa tiêu biểu về thư viện số:
Một số thành viên Hiệp hội Thư Viện Số Hoa kỳ (Digital Library Federation) đã đưa ra một định nghĩa, “Thư viện số là các tổ chức cung cấp tài nguyên, gồm các nhân viên chuyên biệt giúp lựa chọn, tổ chức, cung cấp khả năng truy cập thông minh, chỉ dẫn, phân phối, bảo quản tính toàn vẹn và sự thống nhất của các bộ sưu tập số theo thời gian để đảm bảo làm sao chúng luôn sẵn có để truy xuất một cách dễ dàng và kinh tế nhất đối với một cộng đồng người dùng hoặc một nhóm cộng đồng người dùng” (Raitt, 1999).
Hai học giả người Nga là Sokolova và Liyabev cho rằng thư viện số là một hệ thống phân tán có khả năng lưu trữ và tận dụng hiệu quả các loại tài liệu điện tử khác nhau, mà giúp người dùng có thể truy cập và được chuyển giao thông tin dễ dàng qua mạng máy tính (Xiao, 2003).
Nhiều học giả Trung Quốc lại có cùng quan điểm rằng “Một thư viện số trên thực tế không phải là một thư viện ở góc độ mở rộng không gian của nó; thay vào đó nó là trung tâm tài nguyên thông tin số chứa đựng tài nguyên thông tin đa phương tiện. Một thư viện số tồn tại bằng việc số hóa thông tin, chẳng hạn như văn bản, ký tự, chữ viết, hình ảnh, video và âm thanh, đồng thời cung cấp cho người dùng các dịch vụ thông tin nhanh chóng và thuận tiện thông qua Internet, nhằm chuyển giao một hệ thống thông tin số mà trong đó việc chia sẻ nguồn tài nguyên luôn sẵn sàng” (Wang, 2003).
Mặc dù có sự khác nhau về lý giải trong nhiều định nghĩa, nhưng những đĩnh nghĩa này lại tương tự nhau về mặt bản chất cốt yếu. Vì vậy, từ những định nghĩa trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm khác biệt của thư viện số bao gồm:
o Khả năng lưu trữ khối lượng lớn tài nguyên thông tin khác nhau; o Khả năng lưu trữ và chuyển giao tài nguyên thông tin bằng nhiều phương tiện khác nhau; o Khả năng chuyển giao tài nguyên thông tin qua mạng; o Khả năng quản lý tài nguyên thông tin phân tán; o Khả năng chia sẻ thông tin ở cấp độ chuyên biệt cao; o Có công nghệ tìm kiếm và truy xuất thông minh; o Cung cấp dịch vụ thông tin không giới hạn thời gian và không gian.
Đặc điểm về phương cách làm việc của “thủ thư số”
Nội dung công việc của những “thủ thư số”.
Trong kỷ nguyên thông tin, vai trò của thủ thư thay đổi nhanh chóng. Họ sẽ phát triển tiến tới để trở thành những tổ chức và chuyên gia thông tin trong xã hội. Vì vậy, so với thủ thư truyền thống, nội dung công việc của họ rất khác biệt (Xem Bảng I)
Công việc mà các thủ thư số chủ yếu như sau:
o Lựa chọn, bổ sung, bảo quản, tổ chức và quản lý các bộ sưu tập số; o Thiết kế kết cấu kỹ thuật cho thư viện số; o Mô tả nội dung và thuộc tính của đầu mục hoặc đối tượng (siêu dữ liệu); o Lập kế hoạch, thực hiện và hỗ trợ các dịch vụ số như định hướng thông tin, tư vấn và chuyển giao; o Tạo lập giao diện thân thiện người dùng trên toàn bộ hệ thống mạng; o Xây dựng các chính sách và tiêu chuẩn liên quan đến thư viện số; o Thiết kế, duy trì và chuyển giao các sản phẩm thông tin với giá trị gia tăng; o Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với thông tin số trong môi trường mạng; và o Đảm bảo an ninh thông tin.
Cách thức phục vụ của “thủ thư số”
Cho dù thư viện có phát triển theo hướng nào, thì mục tiêu của nó là đáp ứng nhu cầu thông tin và mong muốn hiểu biết của nhân loại sẽ không bao giờ thay đổi. Trong những thư viện số, các thủ thư số sẽ cung cấp cho bạn đọc những dịch vụ đa dạng, tiên tiến, năng động và linh hoạt theo cách thức đầy sáng tạo, bao gồm: o Phân tích và xử lí nhiều loại tài nguyên thông tin khác nhau; o Thúc đẩy và tổ chức các giá trị tiềm ẩn trong mọi thông tin; o Cung cấp những sản phẩm và dịch vụ thông tin có giá trị gia tăng cao đúng lúc và đúng đối tượng; và o Chuyển giao thông tin đúng đến người dùng và cung cấp các dịch vụ chuyên biệt và định hướng người dùng.
Bảng I: Sự khác nhau giữa thủ thư số và thủ thư truyền thống ở một số nước trên thế giới.
Xây dựng chất lượng của các thủ thư số
Nhằm đáp ứng những đòi hỏi về công việc trong những thư viện số, thủ thư số cần có những năng lực và kiến thức sau:
1) Hệ thống kiến thức tổng hợp. Điều này có nghĩa là kiến thức của thủ thư số không nên hạn chế ở một lĩnh vực đơn lẻ nào. Thay vào đó, nó nên bao gồm nhiều chủ đề đa dạng như khoa học thư viện, khoa học máy tính, khoa học truyền thông và một số công nghệ cụ thể khác…
2) Kiến thức về thông tin ở cấp độ cao. Chủ yếu đề cập đến sự cảm nhận thông tin sâu sắc và khả năng nắm bắt thông tin cao.
Cảm nhận nguồn thông tin sâu sắc • Phản ứng nhanh nhạy với những nguồn thông tin bên ngoài; • Giỏi trong việc tìm kiếm thông tin hữu dụng; • Có ý thức cung cấp dịch vụ thông tin một cách tích cực; và • Có ý thức gia tăng giá trị cho thông tin.
Khả năng nắm bắt thông tin cao • Khả năng lọc thông tin và đánh giá được tính hữu ích của nó; • Khả năng bổ sung thông tin theo cách tốt nhất; • Khả năng xử lý, tổ chức và quản lý thông tin; và • Khả năng phổ biến thông tin đến người sử dụng thích hợp đúng lúc và đúng chỗ.
(3) Có năng lực cá nhân xuất sắc • Có mục đích sáng tạo; • Tinh thần đồng đội cao; • Tính linh hoạt cao; và • Tầm nhìn xa và trí tưởng tượng tốt.
Đề xuất cho phát triển thủ thư số tại một số quốc gia
Tạo lập những tổ chức học tập cho các thủ thư số
Tổ chức học tập dựa trên nền tảng thông tin và tri thức, thực hiện việc quản lý tài nguyên và khuyến khích mọi nhân viên của tổ chức phải tự học, tự phát triển và tự chủ. Mục tiêu phát triển chủ yếu của một tổ chức học tập nhằm trau dồi năng lực của những nhân viên bằng cách thúc đẩy việc học tập và chia sẻ kiến thức qua lại giữa các nhân viên. Lý do cơ cấu lại thư viện thành những tổ chức học tập nhằm tạo ra một môi trường làm việc thoải mái, thích hợp cho sự chia sẻ và trao đổi kiến thức thông tin giữa các nhân viên thư viện. Mỗi nhân viên thư viện góp phần cho sự sẻ chia kiến thức chung và rèn luyện kỹ năng của tổ chức; cùng thời gian đó, anh ta hoặc cô ta sẽ tự mình trau dồi năng lực và trở thành một thủ thư số thực thụ.
Để tạo ra một tổ chức học tập, chúng ta cần phải:
o Thứ nhất, thiết lập nên cơ cấu tổ chức hiện đại thích hợp cho việc học tập. Điều này có nghĩa là chúng ta phải giảm bớt những cấp hành chính trong tổ chức của chúng ta và tập trung vào quản lý đối tượng, làm việc đồng đội và xây dựng kế hoạch song song. o Thứ hai, rèn luyện và xây dựng thói quen học tập cùng văn hóa của tổ chức. o Cuối cùng, học tập chủ động từ bên ngoài và xây dựng liên minh chia sẻ kiến thức với tổ chức khác. Theo cách này, chúng ta có thể tăng cường việc chia sẻ kiến thức và thấu hiểu lẫn nhau giữa các nhân viên thư viện.
Thiết lập kho dữ liệu thủ thư số
Chúng tôi kế hoạch thiết lập kho dữ liệu về nhân viên thư viện tại thư viện CDSTIC dựa trên Mạng Cục Bộ (Local Area Network) nhằm đẩy mạnh sự nối kết giữa thông tin với thông tin, thông tin với thư viện và thông tin với các nhân viên thư viện. Kho dữ liệu của những nhân viên thư viện sẽ không chỉ đơn giản là chọn lựa kinh nghiệm làm việc, kiến thức, kỹ năng và bí quyết công nghệ được sử dụng bởi các nhân viên thư viện, mà còn phân loại những thông tin này, sau đó sàng lọc và duy trì thông tin hữu ích bằng những công nghệ như tính toán sự tối ưu và nhận dạng khuôn mẫu (Hình 1).
Hình 1: Bản đồ phác thảo việc thiết lập kho dữ liệu của những nhân viên thư viện số.
Kho lưu trữ dữ liệu về nhân viên thư viện rất hữu dụng trong việc chuyển đổi kiến thức hiểu biết thành kiến thức được thể hiện ra bên ngoài của những nhân viên thư viện, và bằng cách thực hiện như vậy sẽ củng cố việc chia sẻ và trao đổi kiến thức giữa các nhân viên thư viện. Hơn nữa, còn có thể giảm bớt chi phí và thời gian mà các thư viện dùng để tái huấn luyện các nhân viên thư viện thành những thủ thư số. Thêm vào đó, kho dữ liệu về nhân viên thư viện có thể tạo lên một kho dữ liệu toàn bộ về thư viện chứa đựng kiến thức chuyên môn cùng với hệ thống thông tin của người dùng.
Phác thảo bản đồ kiến thức của thủ thư số
Đối mặt với một dự án đặc biệt hoặc những vấn đề thực tiễn, làm cách nào mà thủ thư số có thể hiểu rõ cần phải kiến thức và thông tin gì, tìm kiếm thông tin bằng cách nào dễ nhất như thế nào, nơi nào để tìm kiếm, và ai có nó? Ở đây, chúng ta cần sự hướng dẫn hoặc thư mục được biết đến như là bản đồ kiến thức để chỉ dẫn con đường cho nhân viên thư viện tìm được kiến thức cần thiết. Bản đồ kiến thức không những cho biết nguồn gốc của kiến thức hoặc thông tin, đồng thời giúp các nhân viên thư viện tìm kiếm thông tin mong muốn, mà còn ghi lại qui trình từ việc sử dụng và chọn lựa thông tin cho đến việc phát triển. Nó cố gắng tìm kiếm những mối quan hệ giữa các đối tượng kiến thức, bao gồm những mối quan hệ giữa nguồn kiến thức khác nhau và giữa kiến thức với người chủ sở hữu,… Bởi vậy bản đồ này rất hữu dụng cho việc trao đổi kiến thức.
Bản đồ kiến thức thủ thư số sẽ bao gồm những nhân tố như tên của nhân viên thư viện, kiến thức chuyên môn mà nhân viên thư viện có, và tiêu đề của dự án hoặc công việc mà người nhân viên thư viện thực hiện. Thêm vào đó, nó có thể liên kết các nhân tố liên quan bằng những đường kẻ mà trên đó giá trị cụ thể được biểu thị để chỉ ra mức độ cân đối giữa các nhân tố. Dường như không thể đòi hỏi bản đồ kiến thức có thể bao quát tất cả các kiến thức mà mọi nhân viên thư viện trong một thư viện cần có. Hơn nữa, quá nhiều chi tiết sẽ khiến người sử dụng lạc lối. Do đó chìa khóa để thiết kế một bản đồ kiến thức là nhận thấy được kiến thức và thông tin cái nào quan trọng và tuyệt đối cần thiết để hoàn tất mọi dự án hoặc công việc, sau đó sử dụng chỉ mục chủ đề hoặc những từ khoá miêu tả thông tin và kiến thức này. Lưu ý rằng bản đồ kiến thức là một bản đồ năng động, mà cần được thay đổi theo sự biến đổi của những nhân viên thư viện và ý kiến phản hồi từ người dùng.
Những bản đồ kiến thức của thủ thư số có thể thay đổi, nhưng luôn luôn có một điểm vẫn giữ đúng như lúc đầu. Nói cách khác, bất kể thứ gì mà bản đồ kiến thức sau cùng chỉ ra một thủ thư hoặc dự án, nó phải chỉ ra cho các thủ thư làm thế nào để tìm thấy kiến thức và thông tin mong muốn. Việc sử dụng bản đồ kiến thức có thể giải thích bằng một ví dụ đơn giản (Hình 2).
Trong hình 2: . Pi (i = 1; 2; 3. . .) chỉ dự án hoặc công việc. . Ki (i = 1; 2; 3. . .) chỉ kiến thức, thông tin hoặc kỹ năng. . Li (i = A; B; C. . .) đại diện cho thủ thư khác. . PiKi: Đường kẻ giữa Pi và Ki chỉ ra rằng Ki thì rất quan trọng để hoàn thành Pi. Giá trị trên đường kẻ càng lớn, thì Ki càng quan trọng hơn đối với Pi. . KiLi: Đường kẻ giữa Ki và Li chỉ ra rằng Li có Ki. Giá trị trên đường kẻ càng lớn, thì Li càng tốt hơn khi sử dụng Ki . PiPi: Đường kẻ giữa Pi và Pi chỉ ra rằng có một số quan hệ giữa Pi và Pi. Giá trị trên đường kẻ càng lớn, thì Pi càng gần Pi hơn.
Hình 2: Một ví dụ về bản đồ tri thức của thủ thư số.
Theo như Hình 2, trước khi thư viện CDSTIC có thể tiến hành một dự án hoặc một công việc giống như P1, hoặc có một số quan hệ với P1, đầu tiên chúng ta có thể nhận thấy rằng P1 cần kiến thức của K1, K3, K4 và K5. Giá trị trên P1K1, P1K3, P1K4 và P1K5 lần lượt là 5, 3, 5 và 2. Rõ ràng K1 và K4 quan trọng hơn đối với P1 hơn là K3 và K5. Sau đó chúng ta cũng có thể thấy rằng LA tốt nhất cho việc sử dụng K1 (bởi vì giá trị trên LAK1 là 5 hơn giá trị của nó trên LDK1).
Bằng cách này, chúng ta có thể lựa chọn một số thủ thư thích hợp chẳng hạn như LA để tạo nên một nhóm làm việc nhằm hoàn thành dự án hoặc giới thiệu những nhân viên thư viện này cho nhân viên thư viện có trách nhiệm đối với dự án hoặc công việc này và giúp đỡ anh ta. Bằng việc sử dụng bản đồ kiến thức, chúng ta không chỉ giảm bớt thời gian và chi phí dùng trong dự án và trong việc tái huấn luyện của các thủ thư số, mà còn tận dụng được kiến thức chia sẻ giữa các nhân viên thư viện.
Tăng cường việc tái huấn luyện các nhân viên thư viện
Những phòng ban cụ thể sẽ chịu trách nhiệm cho việc đưa ra những quy tắc và chương trình tái huấn luyện các nhân viên thư viện thành các thủ thư số. Cần đề ra mục tiêu cho việc huấn luyện mọi nhân viên thư viện hàng năm chẳng hạn như nội dung, cách thức, thời gian và chất lượng huấn luyện, đồng thời đánh giá kịp thời kết quả của việc huấn luyện. Thậm chí quan trọng hơn, các thư viện nên tăng cường sự trao đổi và hợp tác trong việc huấn luyện những thủ thư số bên trong và bên ngoài.
Theo tạp chí The Electronic Library, Vol. 23 No. 4, 2005, pp. 433-441, ISSN: 0264-0473